Dữ liệu mới nhất từ Ấn Độ và Sri Lanka, các quốc gia sản xuất chỉ xơ dừa chính, xác nhận kết quả hoạt động ấn tượng của ngành. Hai nước đã có sự gia tăng cả về lượng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu. Đây là sự tiếp nối của sự phát triển thị trường tích cực từ thập kỷ trước. Đáng chú ý là xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Ấn Độ tiếp tục tăng từ 321 nghìn tấn năm 2010 lên 989 nghìn tấn năm 2019 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 13% trong giai đoạn 2010-2019. Trong khi đó, xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa của Sri Lanka cũng có xu hướng tăng lên. Trong giai đoạn 2010-2020, sản lượng xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Sri Lanka là 360 nghìn tấn với tốc độ CAGR là 4%. Doanh thu xuất khẩu trung bình hàng năm là Rs. 25,922 triệu USD hoặc tương đương 133 triệu USD. Tổng sản lượng xuất khẩu của hai nước năm 2020 là hơn 1,5 triệu tấn, tạo kim ngạch xuất khẩu hơn 4 tỷ USD.
Hình 1. Xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Sri Lanka, 2010-2020

Báo cáo mới nhất từ Coir Board của Ấn Độ cho thấy xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Ấn Độ trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020 là 1,04 triệu tấn, tạo ra Rs. 311.267 lakh, hay khoảng 1,8 tỷ đô la Mỹ. Sản lượng xuất khẩu cao hơn 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Về doanh thu, xuất khẩu tăng 22,6% so với doanh thu của năm trước.
Trong số tất cả các sản phẩm chỉ xơ dừa, nhu cầu toàn cầu về mụn dừa vẫn được ghi nhận cao nhất. Trong giai đoạn này, 0,64 triệu tấn xơ dừa từ Ấn Độ được đưa ra thị trường quốc tế, tiếp theo là xơ dừa chiếm 0,3 triệu tấn.
Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020, lượng xuất khẩu các sản phẩm làm từ xơ dừa từ Indonesia đạt 37.899 tấn, tạo ra kim ngạch xuất khẩu hơn 9 triệu đô la Mỹ. Tổng lượng xuất khẩu thấp hơn không đáng kể 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, về giá trị, xuất khẩu giảm 27% do giá sản phẩm giảm. Xơ dừa và xơ dừa là những sản phẩm chủ yếu được xuất khẩu từ Indonesia. Trung Quốc vẫn là điểm đến chính của các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Indonesia. Trong thời gian này, 80% tổng lượng xơ dừa xuất khẩu được gửi sang Trung Quốc. Các điểm đến khác bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
Hình 2. Xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Ấn Độ
từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020

Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020, 14 sản phẩm làm từ xơ dừa được gửi từ Sri Lanka đến thị trường toàn cầu, tạo ra doanh thu xuất khẩu hơn 194,25 triệu đô la Mỹ hoặc tăng 8,6% so với doanh thu của năm trước.
Hình 3. Xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Ấn Độ
từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020

Các sản phẩm xơ dừa đúc khuôn được sử dụng cho mục đích chủ yếu là làm vườn là sản phẩm đóng góp cao nhất của quốc gia vào doanh thu xuất khẩu từ các sản phẩm làm từ xơ dừa trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020. Trong giai đoạn này, giá trị xuất khẩu của các sản phẩm chỉ xơ dừa là Rs. 25.126,31 triệu USD, tương đương 127,75 triệu USD, chiếm 66% tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm làm từ xơ dừa. So với giá trị của năm trước, xuất khẩu của sản phẩm này đã cao hơn 12%. Mexico vẫn là nhà nhập khẩu chính các sản phẩm chỉ xơ dừa đúc của Sri Lanka, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc và Anh. Các sản phẩm khác đóng góp đáng kể vào thu nhập xuất khẩu là xơ nệm và xơ dừa.
Nhìn chung, giá xơ dừa tương đối ổn định tại Indonesia. Trong năm 2020, giá FOB trung bình của xơ dừa ở Indonesia là USD302 / MT so với giá trung bình một năm trước đó. Trong khi đó, giá xơ dừa tại Sri Lanka có xu hướng giảm, đạt 107 USD / tấn vào tháng 12 năm 2020 với mức trung bình hàng năm là 125 USD / tấn vào năm 2020. Giá năm 2020 thấp hơn 28% so với giá trung bình một năm trước đó. Dự kiến giá sẽ tăng mạnh hơn vào năm 2021, trong hai tháng qua, giá đã tăng 8% từ 107 USD / tấn vào tháng 12 năm 2020 lên 116 đô la Mỹ / tấn vào tháng 2 năm 2021 phản ánh nguồn cung giảm.
Hình 4. Thu nhập từ xuất khẩu các sản phẩm chỉ xơ dừa từ Sri Lanka,
từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2020 (triệu Rs)

Hình 5. Giá xơ dừa trung bình hàng tháng từ tháng 1 năm 2013
đến tháng 2 năm 2021 (USD / MT)




