Các chuyên gia kinh tế thường khuyên rằng, trước khi chào bán, sản xuất một sản phẩm mới nào ra thị trường thì người sản xuất phải trả lời được ít nhất 4 câu hỏi:
- Tổng cung - cầu của sản phẩm đó hiện nay ra sao?
- Tốc độ cung và cầu của sản phẩm?
- Thị phần của sản phẩm?
- Xu thế tiêu dùng?
Nếu chưa giải đáp đầy đủ được những câu hỏi trên thì tốt nhất bạn không nên cho ra đời mặt hàng này.
Những thông tin khác như lợi thế của đối thủ, khả năng thanh toán, điều kiện sản xuất cũng khá quan trọng khi quyết định đầu tư. Đối với cây dừa, bài viết này xin mạn phép giới thiệu một số thông tin về những câu hỏi trên.
I. Sản xuất dừa trên thế giới
Theo Hiệp hội Dừa Châu Á - Thái Bình Dương (APCC) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), cây dừa được trồng trên 90 quốc gia vùng nhiệt đới với tổng diện tích 12,366 triệu ha vào năm 2010 và 11,908 triệu ha năm 2016, trong đó diện tích dừa của các nước Châu Á – Thái Bình Dương là gần 11 triệu ha, chiếm 85% tổng điện tích dừa thế giới. Ba nhà sản xuất hàng đầu trên thế giới là: Indonesia, Philippines, và Ấn Độ - chiếm tới 3/4 sản lượng toàn cầu. Thay vì tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu, nhưng ngược lại tổng sản lượng dừa của họ đã bị giảm nhẹ. Mặc dù sản lượng hàng năm đã tăng hơn 2% mỗi năm từ năm 2000 đến năm 2009; nhưng đến nay, sản lượng trung bình đã giảm 0,1% hàng năm kể từ năm 2010 donăng suất thấp (trung bình 46 trái/cây/năm) và cây già cỗi do được trồng từ cuối thế chiến thứ II cùng với những giống cũ, thiên nhiên cũng đã không đối xử tốt với người nông dân trồng dừa; chuỗi cung ứng phần lớn không được tổ chức tốt và sản xuất phân tán với quy mô nhỏ nên bất lợi đến quá trình cung cấp đầu vào, chế biến sơ cấp và tiếp thị, chi phí hậu cần cao, ảnh hưởng đến cả người trồng và người chế biến tại 3 quốc gia này. Trong khi đó nhu cầu toàn cầu đã tăng gần 10% mỗi năm, mỗi tấn dừa đã tăng hơn 50% kể từ năm 2013, và các nhà sản xuất trên thế giới vẫn chưa kịp bổ sung thêm năng lực sản xuất do khó khăn trong việc mở rộng quy mô.
Tổng Diện tích dừa của thế giới: 11,908 triệu ha. Trong đó: 1. Indonesia 3,5 triệu ha; 2. Philippine 3,5 triệu ha; 3. Ấn Độ 2,1 triệu ha; 4. Srilanka 440 ngàn ha; 5. New gui nea 221 ngàn ha; 6. Thái Lan 206 ngàn ha; 7. Kenya 177 ngàn ha; 8. Việt Nam 159 ngàn ha.
Tổng Sản lượng dừa của thế giới: 70 tỷ quả. Trong đó: 1.Ấn Độ 22 tỷ; 2.Indonesia 16tỷ; 3.Philippine 15 tỷ; 4. Brazil 3 tỷ; 5. Srilanka 2,9 tỷ; 6. Việt Nam 1,3 tỷ. 7. Mexico 1,1tỷ; 8. Thái Lan 1 tỷ.
· Sản xuất dừa tại Philippine:
Theo dữ liệu mới nhất (2017) cho thấy, Philippine có 3,5 triệu ha đất trồng dừa chiếm 26% của 12 triệu ha đất nông nghiệp của cả nước với 339 triệu cây dừa do 3,4 triệu nông dân canh tác trong tổng số 26 triệu người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào ngành dừa với 68 trong số 81 tỉnh có trồng dừa. Là quốc gia xuất khẩu hàng đầu trên toàn cầu về dầu dừa và các sản phẩm dừa khác. mặc dù là nhà sản xuất dừa lớn thứ 3 sau Ấn Độ và Indonesia nhưng doanh thu về xuất khẩu không dưới 1,5 tỷ USD mỗi năm kể từ năm 2010, chiếm 59% thị phần xuất khẩu dừa trên thế giới. Doanh thu cao nhất được ghi nhận trong năm 2011 là 1,95 tỷ USD, và 2016 là 2 tỷ USD, đóng góp 1,15 GDP của nước này; theo dự kiến năm 2017 sẽ đạt 2,2 tỷ USD.
Sản phẩm dừa xuất khẩu rất đa dạng, thể hiện năng lực chế biến mạnh và tính chất quan trọng của ngành dừa Philippine. Là nhà sản xuất dầu dừa lớn nhất thế giới, các thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ và Châu Âu. Ước thực hiện sản lượng dầu sản xuất 2017 là 1.480 tấn, trong đó xuất khẩu 850 ngàn tấn, giảm so với năm trước 7,61%. Châu Âu và Mỹ vẫn là hai thị trường nhập khẩu chính dầu dừa từ Philippines; thị trường nhập khẩu lớn tiếp theo là Nhật Bản. Châu Âu đã nhập khẩu hơn 60% trong tổng lượng dầu dừa xuất khẩu của Philippines, và khoảng 30,2% trong tổng lượng dầu dừa được xuất khẩu sang Mỹ, 4,3% sang Nhật Bản và 2,7% sang Trung Quốc.
Xuất khẩu nước dừa tại Philippin đã tăng gần gấp đôi từ 647.000 lít lên 1,8 triệu lít trong giai đoạn 2008-2010. Đến năm 2015, con số này đã tăng lên 61 triệu lít.
Về cơm dừa nạo sấy, năm 2017, Philippines đã duy trì xu hướng gia tăng sản xuất mặt hàng này với sản lượng 2,3 triệu tấn sau khi sụt giảm còn 2,2 triệu tấn vào năm 2016. Xuất khẩu 2017 là 140 ngàn tấn, bằng với những năm trước. Mỹ và Châu Âu vẫn là những điểm đến chính, chiếm hơn 81% tổng xuất khẩu. Mỹ chiếm 32% tổng xuất khẩu. Ở châu Âu, Hà Lan là trung tâm chính, nhận 11% số lượng, tại các nước châu Á, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản nằm trong số các nước nhập khẩu cơm dừa nạo sấy lớn nhất từ Philippines.
Sữa dừa của Philippine tuy là mặt hàng mới, nhưng cũng là sản phẩm có chiều hướng phát triển mạnh với sản lượng hằng năm trên 1.500 tấn.
Là quốc gia xuất khẩu than hoạt tính đứng thứ 2 sau Ấn độ với sản lượng 20 ngàn tấn đã được xuất khẩu sang 51 thị trường khác nhau. Đức, Nhật Bản và Mỹ là những thị trường nhập khẩu hàng đầu than hoạt tính từ Philippines, nhập hơn 52% trong tổng lượng xuất khẩu than hoạt tính từ quốc gia này.
· Sản xuất dừa tại Indonesia:
Indonesia có diện tích dừa lớn nhất thế giới, chiếm 12,% diện tích đất nông nghiệp, trình độ thâm canh thấp nên năng suất không cao (45 trái/cây/năm), là một quốc gia chủ yếu theo đạo Hồi nên một nửa sản lượng được tiêu thụ trong nước. So với các quốc gia xuất khẩu sản phẩm dừa thì Indonesia đứng hàng thứ nhì sau Philippine với sản lượng dầu ước 2017 là 995 ngàn tấn, tăng 3,13% so cùng kỳ; trong đó xuất khẩu 620 ngàn tấn, giảm 7,46% so cùng kỳ. Cơm dừa nạo sấy 1, 750 triệu tấn, giảm 0,6% so năm trước; trong đó xuất khẩu 12 ngàn tấn, giảm 20% so với năm trước vì hiệu quả không cao. Bột dừa 515 ngàn tấn, tăng 1,1% so với năm trước; trong đó xuất khẩu 245 ngàn tấn, tăng 2,8% và các mặt hàng xuất khẩu khác như than hoạt tính 25 ngàn tấn, chỉ xơ dừa 13 ngàn tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu dừa đạt 1 tỷ USD trong 2016 chiếm 0,7% giá trị hàng xuất khẩu của quốc gia này.
Các thị trường tiềm năng của Indonesia cũng giống như Philippine nhưng lợi thế cạnh tranh không lớn do năng lực chế biến chưa cao, trình độ công nghệ thấp.
Tuy nhiên, Indonesia là một đối thủ đáng gờm về mặt hàng dầu cọ vì giá thành rẻ, giá trị dinh dưỡng chỉ đứng sau dầu dừa, nhu cầu trên thế giới rất lớn. Hai nước Indonesia và Malaisia chiếm khoảng 85% đến 90% tổng sản lượng dầu cọ trên toàn cầu với sản lượng 57 triệu tấn vào năm 2016, chiếm hơn 30% sản lượng dầu thực vật trên thế giới. Là ngành kinh tế mũi nhọn đối với nền kinh tế của đất nước: xuất khẩu dầu cọ là nguồn thu ngoại tệ quan trọng, tạo cơ hội việc làm cho hàng triệu người Indonesia. Về nông nghiệp, dầu cọ là ngành công nghiệp quan trọng nhất của Indonesia đóng góp 1,5-2,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia. Năm 2016 Indonesia có khoảng 11,9 triệu ha đất trồng cọ dầu, con số này dự kiến sẽ tăng lên 13 triệu ha vào năm 2020, lớn hơn tổng diện tích dừa trên toàn thế giới hiện nay. Tuy nhiên, việc sản xuất dầu cọ đang bị nhiều tổ chức quốc tế lên án và đưa ra những nghị quyết nhằm hạn chế sản xuất vì ngành này có liên quan đến những vấn đề chính như nạn phá rừng, suy thoái môi trường sống, biến đổi khí hậu, tàn phá động vật.
· Sản xuất dừa tại Ấn Độ:
Là một quốc gia đông dân lớn thứ hai trên thế giới, hơn 1 tỷ dân và có tập quán sử dụng dừa trong chế biến thức ăn hàng ngày với hơn 17 tỷ quả/năm, chiếm 2/3 sản lượng sản xuất, cho nên dù là quốc gia có sản lượng dừa đứng đầu thế giới, nhưng lợi thế cạnh tranh của Ấn độ chỉ là các mặt hàng từ chỉ xơ dừa; giá trị dừa xuất khẩu chiếm dưới 0,1% tổng giá trị hàng xuất khẩu.
· Sản xuất dừa tại Việt Nam:
Diện tích dừa của Việt Nam chỉ bằng 4% diện tích dừa của Indonesia và Philippines, 8% diện tích dừa của Ấn Độ, 40% diện tích dừa của Sri Lanka. Tuy nhiên, năng suất dừa bình quân của Việt Nam đạt 9.863 trái/ha/năm tương đương 1,9 tấn copra/ha, cao hơn mức bình quân của các nước thuộc Hiệp hội dừa Châu Á - Thái Bình Dương (APCC, chỉ đạt 0,9 tấn copra/ha), Philippines, Indonesia (0,85 tấn), Ấn Độ (1,1 tấn).
Bến Tre là tỉnh có diện tích dừa lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 71 ngàn ha (năm 2017), chiếm hơn 40% diện tích dừa của cả nước. Sản lượng gần 600 triệu trái. Bến tre có đa dạng sinh học giống dừa bản địa với năng suất và chất lượng tốt như giống dừa Ta, dừa Dâu, dừa Xiêm, dừa Dứa. Năng suất bình quân của các giống dừa cao bản địa được tuyển chọn đạt > 60 quả/cây/năm, hàm lượng dầu đạt >65%. Một số giống dừa uống nước như dừa Xiêm, chất lượng ngon, ngọt (độ brix đạt >7%), hàm lượng protein 2,32g/100 ml, béo 6,31g/100ml. Chính vì vậy giá dừa trái nguyên liệu của Bến Tre luôn cao gấp đôi so với giá dừa của Indonesia và Philippine trong suốt 10 năm qua. Tuy nhiên, do diện tích của mỗi nông hộ quá nhỏ nên thu nhập không cao, nông dân trồng dừa còn khó khăn.
Toàn tỉnh có hơn 1.970 cơ sở chế biến dừa, với nhiều loại hình, quy mô hoạt động rất khác nhau, có khả năng chế biến hết sản lượng dừa của Đồng bằng sông Cửu Long.Giá trị sản xuất công nghiệp 2017 tăng 11,11%/năm so với năm 2016. Giá trị xuất khẩu (2017) trên 180 triệu USD, chiếm 21% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh với các sản phẩm có giá trị lớn như sữa dừa, dầu dừa tinh khiết, nước dừa đóng hộp được sản xuất với các thiết bị hiện đại, có một số công nghệ thuộc loại cao nhất Đông Nam Á. (Nếu tính thêm cả nước, giá trị xuất khẩu dừa Việt Nam ước khoảng 500 triệu USD, bằng 1/3 giá trị xuất khẩu của Philippine- Trong khi diện tích chỉ bằng 4%). Một số doanh nghiệp lớn đã có những chứng nhận như ISO 22000: 2005, HACCP, HALAL, KOSSHER, Sản phẩm chứng nhận hữu cơ. Thị trường xuất khẩu của Vkệt Nam ngày càng đi vào thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng như Châu Âu, Mỹ. Lợi thế về điều kiện canh tác, sản xuất, trình độ ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật thì Việt Nam có nhiều thuận hơn rất nhiều. Riêng tại Bến Tre, việc sản xuất sản phẩm dừa hữu cơ là lợi thế vượt trội; phần lớn dưỡng chất cung cấp cho cây dừa đều từ nguồn phù sa được bồi 2-3 năm/lần, lượng phân vô cơ được bón bổ sung hầu như dưới mức cho phép, thuốc bảo vệ thực vật hiếm khi sử dụng, chính vì vậy sản phẩm dừa của Bến Tre có thừa khả năng để tham gia các thị trường lớn, khó tính nhưng đầy tiềm năng. Vì là quốc gia có diện tích dừa quá nhỏ nên thị phần xuất khẩu chiếm dưới 1% so với tổng lượng xuất khẩu trên thế giới (Không sợ thừa hàng khi tăng sản lượng).
Về mặt giá cả, sản phẩm dừa Việt Nam đã hoà cùng với thị trường thế giới, đó là điều kiện vô cùng thuận lợi, chớ không phải là điều bất lợi như nhiều người lầm tưởng. Cũng cần hiểu thêm rằng giá cả sản phẩm dừa trên thị trường luôn giao động, tăng giảm thất thường. Tuy nhiên xu thế chung giá sản phẩm dừa đều tăng mạnh theo thời gian, tính từ năm 2013 đến nay, giá dừa đã tăng 50%
II- Dự báo mức cầu về dừa đến 2025
Theo các Trung tâm Dự báo có tầm cỡ trên thế giới, mức tăng về nhu cầu các sản phẩm dừa toàn cầu đến 2025 tăngbình quân trên 10%, trong đó: Sữa dừa tăng 15% (riêng sữa dừa hữu cơ tăng 8,5%), Thạch dừa tăng 5,6%, Bột dừa tăng 6,6%, Kem dừa tăng 36%, Nước dừa tăng 25%, Dầu dừa tinh khiết tăng 21%. (Xem chi tiết các dự báo về sản phẩm dừa trong mục Thông tin thị trường của trang web này).
Mức tăng cao với lý do thay đổi sở thích của người tiêu dùng và chấp nhận xu hướng tiêu thụ thực phẩm thuần chay từ thiên nhiên, lành mạnh có hàm lượng calo thấp và có giá trị dinh dưỡng cao, giảm nguy cơ về tim mạch. Những mặt hàng mỹ phẩm cao cấp như dầu gội đầu, kem dưỡng da, son môi, chải mi, chất tẩy trang…;Trong lĩnh vực y học, màng cellulose sinh học có nguồn gốc từ nước dừa dùng để sản xuât các sản phẩm siêu cao cấp như da nhân tạo trị phỏng, động mạch nhân tạo, chỉ tan, viên nang đều có nguồn gốc nguyên liệu từ dừa. Tập đoàn Sony, thời gian qua đã kết hợp với Ajinomoto phát triển các màng loa âm thanh đầu tiên sử dụng cellulose vi sinh vật (xem Bằng sáng chế Mỹ 4,742,164), rất đắt, hơn 3.000 đô la cho một đôi. Cellulose vi sinh còn đươc dùng để chế biến màng bao xúc xích, lạp xưởng với quy mô lớn, khi mà các màng bao hoá học được sản xuất trước đây được khuyến cáo hạn chế sử dụng.
III- Triển vọng:
Qua những thông tin trên ta thấy: Tổng cung thấp hơn tổng cầu về dừa; Cầu tăng 10%, trong khi đó cung chỉ tăng dưới 1% và khoảng cách ngày càng giãn ra. Thị phần dừa của Việt Nam nhỏ hơn 1% vì vậy nếu sản lượng xuất khẩu trong tương lai có tăng thêm thì không ảnh hưởng gì lớn đến mức cung; Các đối thủ, trừ Philippin với các lợi thế về thị trường tiềm năng và có kinh nghiệm trong kinh doanh; còn những quốc gia sản xuất dừa còn lại, so với Việt Nam thì gần như tương đương, thậm chí ngành dừa Việt nam còn vượt trột hơn ở một số lĩnh vực.
IV- Kết luận:
Nếu trồng dừa ngày hôm nay thì 50-60 năm sau thị trường tiêu thụ vẫn khả quan. Bà con nông dân hãy yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất. Hiện nay giá dừa có giảm theo chu kỳ và do là thời vụ chung của các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đó chỉ là tạm thời. Xu thế giá dừa tăng theo thời gian là điều tất yếu.
Hiệp hội Dừa Bến Tre